Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn có những rào cản trong việc thực hiện TGPL cho người dân tộc thiểu số
- Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn nên ít được tiếp cận với các thông tin về TGPL nên nhiều người chưa biết được quyền được TGPL của mình. Điều này đã phần nào ảnh hưởng đến việc triển khai hoạt động, sự tiếp cận của người dân với dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước.
- Chất lượng nguồn nhân lực làm công tác TGPL phát triển chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ công tác TGPL trong tình hình mới; Đội ngũ trợ giúp viên pháp lý phát triển chậm, một số địa phương còn thiếu ổn định, chưa có đủ số lượng trợ giúp viên pháp lý cần thiết; Năng lực tổ chức bộ máy cán bộ để triển khai thực hiện TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế do số lượng người thực hiện TGPL biết tiếng dân tộc còn ít nên một số trường hợp thực hiện TGPL phải thông qua lực lượng cán bộ tại chỗ phần nào cũng ảnh hưởng đến kết quả TGPL cho người dân do không kiểm soát được việc truyền đạt thông tin pháp luật.
- Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong quá trình thực hiện chính sách TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số chưa đồng bộ, dẫn đến hiệu quả của việc thực hiện chính sách TGPL chưa cao.
- Công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện công tác dân tộc về TGPL còn hạn chế, chưa kịp thời để nắm bắt những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn để có những chính sách, giải pháp phù hợp và hiệu quả.
- Chất lượng vụ việc TGPL còn nhiều hạn chế, tập trung nhiều nhất ở 02 hình thức TGPL cơ bản là tư vấn pháp luật và tham gia tố tụng. Ở một số địa phương, có tình trạng người thực hiện TGPL (nhất là Luật sư mới hoặc luật sư già) chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc, không tham gia đầy đủ vào các hoạt động tố tụng (gặp bị can, bị cáo; thu thập chứng cứ…) hoặc có trường hợp khi ra Tòa thường chỉ đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nhưng không có lập luận hoặc chứng cứ cụ thể nên thiếu tính thuyết phục, làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức TGPL cũng như chất lượng vụ việc TGPL và quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
Những rào cản trên xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Hiệu quả công tác truyền thông còn nhiều hạn chế. Chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều. Thời lượng và chất lượng truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc điểm của từng nhóm dân cư, cũng như đặc thù của các vùng miền hay từng dân tộc khác nhau. Vì vậy, một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là nhóm người nghèo, người dân tộc thiểu số chưa biết đến TGPL.
- Do tâm lý truyền thống giải quyết các công việc theo thói quen và phong tục, tập quán. Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc đều có những phong tục, tập quán mang đậm sắc thái văn hóa của dân tộc mình. Đây là một rào cản lớn đối với người dân khi có lợi ích bị xâm hại những không được tiếp cận với hoạt động TGPL.
- Vẫn còn tình trạng coi việc TGPL là nhiệm vụ của riêng ngành tư pháp nên có nơi Sở Tư pháp, Ban dân tộc tỉnh chưa chủ động trong việc phối hợp để thực hiện TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số hoặc có phối hợp nhưng chưa đồng bộ, dẫn đến hiệu quả của việc thực hiện chính sách TGPL chưa cao.
- Cơ chế quản lý chất lượng hoạt động TGPL chưa có sự quan tâm đúng mức của các cấp ủy, chính quyền địa phương. Vấn đề chất lượng hoạt động TGPL và việc đánh giá, khẳng định chất lượng hoạt động TGPL thông thường chỉ do các Trung tâm TGPL nhà nước hoặc ngành Tư pháp tiến hành, ít có quan điểm, đánh giá của chủ thể thứ ba. Vì vậy, kết quá đánh giá còn mang tính chủ quan, áp đặt ý chí.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
- Tiếp tục hoàn thiện và triển khai có hiệu quả các văn bản về TGPL
Để triển khai có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật về TGPL, thời gian tới cần nghiên cứu xây dựng một số văn bản như: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về TGPL cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo giai đoạn sau năm 2020; Quy tắc nghề nghiệp TGPL; Thông tư thay thế Thông tư số 18/2013/TT-BTP và Thông tư số 05/2017 hướng dẫn cách tính thời gian và thủ tục thanh toán chi phí thực hiện vụ việc TGPL... Bên cạnh đó, cần tổ chức triển khai các văn bản mới ban hành, tăng cường theo dõi, đánh giá tổng kết việc thực hiện các văn bản.
- Tăng cường công tác thông tin, truyền thông về trợ giúp pháp lý nói chung và quyền được trợ giúp pháp lý của người dân nói riêng
Đa dạng hóa các phương thức truyền thông về TGPL (qua báo, đài phát thanh, truyền hình, internet,...) phù hợp với từng đặc thù địa bàn, trình độ dân trí của người dân, đặc biệt là phù hợp với nhóm người dân tộc thiểu số, chẳng hạn xây dựng video, kịch bản liên quan đến câu chuyện pháp luật; đối với các dân tộc có chữ viết thì biên soạn tài liệu bằng tiếng dân tộc, có sự phối hợp giữa tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý với các cơ quan thông tin, đại chúng.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý
+ Căn cứ nhu cầu trợ giúp pháp lý, cần xác định rõ số lượng người thực hiện TGPL nhất là Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL để trên cơ sở đó xây dựng Quy hoạch, tuyển dụng viên chức nhằm tạo nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý hoặc đưa ra tiêu chí để ký hợp đồng với các Luật sư; Đồng thời chủ động trong việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho đội ngũ này.
+ Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ TGVPL và các viên chức của Trung tâm theo hướng kết hợp giữa tự học, tự nghiên cứu hoàn thiện mình với đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn lại, trong đó đặc biệt chú trọng việc tự học tập nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức mới và kỹ năng làm việc. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác TGPL của địa phương hằng năm và dài hạn. Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng tập trung vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng TGPL và kỹ năng làm việc với các đối tượng đặc thù và thực hiện TGPL trên từng lĩnh vực cụ thể.
- Tăng cường phối hợp với cơ quan có liên quan: Tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức trợ giúp pháp lý với các cơ quan có liên quan (cơ quan tố tụng, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, ...) để phát hiện và trợ giúp pháp lý kịp thời người dân tộc thiểu số; Các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý đã chủ động tiếp cận, xử lý các thông tin liên quan đến người được TGPL là người dân tộc thiểu số trên các phương tiện thông tin đại chúng để kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ; Thiết lập mạng lưới tại cơ sở: các thiết chế có thể giúp người dân tiếp cận TGPL: UBND cấp xã; công chức tư pháp, hộ tịch; tổ hòa giải; già làng, trưởng bản, người có uy tín; cán bộ phụ nữ; công an xã; hội nông dân; hợp tác xã...
- Tăng cường quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý: Duy trì chế độ kiểm tra định kỳ và đột xuất về tổ chức và hoạt động của Trung tâm để bảo đảm hoạt động TGPL được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm chất lượng hoạt động TGPL, không để xảy ra sai sót hoặc lợi dụng hoạt động TGPL để trục lợi; kịp thời phát hiện, đấu tranh và xử lý kịp thời đối với các hành vi vi phạm pháp luật về TGPL. Làm tốt công tác khen thưởng, tôn vinh, nêu gương người tốt, việc tốt, điển hình hoặc có đóng góp tích cực cho hoạt động TGPL; phê phán, lên án với những hành vi lệch lạc, lợi dụng hoạt động TGPL để trục lợi. Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát, phản hồi kết quả giải quyết vụ việc đối với những vụ việc có tính chất phức tạp, kéo dài; làm tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý phản ánh, kiến nghị của công dân liên quan đến tổ chức và hoạt động của Trung tâm, nhất là về chất lượng vụ việc TGPL
Tăng cường vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cũng như các cơ quan thông tin, báo chí đối với tổ chức và hoạt động của Trung tâm thực hiện pháp luật về TGPL.
Tăng cường quản lý chất lượng, thực hiện đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, huy động đội ngũ chuyên gia pháp luật, luật sư,.. có nhiều kinh nghiệm tham gia đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Đồng thời đề cao cơ chế lấy ý kiến các cơ quan liên quan, nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý nhằm từng bước nâng cao chất lượng của hoạt động trợ giúp pháp lý và trách nhiệm của người thực hiện trợ giúp pháp lý./.